Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là gì? Các công bố khoa học về Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống

Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống, còn gọi là tê mặt injectable, là một quá trình tiêm chất gây tê trực tiếp vào các cơ dựng sống gần mặt để gây tê toàn bộ hoặc một...

Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống, còn gọi là tê mặt injectable, là một quá trình tiêm chất gây tê trực tiếp vào các cơ dựng sống gần mặt để gây tê toàn bộ hoặc một phần của khuôn mặt. Điều này thường được thực hiện bởi chuyên gia y tế như bác sĩ da liễu hoặc bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ bằng cách sử dụng một loại thuốc gây tê như Botox hoặc Dysport. Mục đích của quá trình này là giảm nếp nhăn, chất béo thừa và các vấn đề khác liên quan đến mặt để thay đổi diện mạo và cải thiện ngoại hình.
Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là một phương pháp thẩm mỹ phổ biến để làm giảm các nếp nhăn và dùng để tạo ra một mặt mỹ hơn. Các chất gây tê như Botox (toxin botulinum) hoặc Dysport (abobotulinumtoxinA) được sử dụng để làm giảm sự co bóp và nhấc mắt bò.

Quá trình này thường thực hiện bằng cách tiêm chất gây tê trực tiếp vào các cơ dựng sống gần mặt để làm giảm co bóp và nâng mô mặt. Chất gây tê được tiêm một cách chính xác vào các điểm chiến lược, như các cơ mím hoặc các điểm nén trên khuôn mặt, để giảm sự co bóp cơ và tạo ra các hiệu ứng thẩm mỹ mong muốn.

Botox và Dysport hoạt động bằng cách tạm thời ngăn chặn tín hiệu điện từ não đến các cơ dựng sống, làm giảm khả năng co bóp của chúng. Khi cơ dựng sống không còn co bóp mạnh, các nếp nhăn và các biểu hiện khác của lão hóa da trên mặt cũng được làm giảm đáng kể.

Phương pháp này thường được sử dụng để giảm các nếp nhăn trên vùng trán, xử lý xòe mắt bò hoặc nhăn quanh mắt (còn gọi là quầng thâm và gắp mắt), và giảm nhăn xám ở vùng nhăn mũi, mí mắt và khuôn mặt nói chung.

Quá trình gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thường không đau đớn và không cần thời gian hồi phục lâu. Hiệu ứng của gây tê có thể kéo dài từ 3 đến 6 tháng tùy thuộc vào loại chất gây tê được sử dụng và sự phản ứng cá nhân của mỗi người.

Tuy nhiên, quá trình này cần được thực hiện bởi một chuyên gia y tế có kỹ năng và kinh nghiệm để đảm bảo an toàn và đạt được kết quả thẩm mỹ mong muốn.
Khi tiến hành gây tê mặt phẳng cơ dựng sống, bước đầu tiên là một cuộc tư vấn với bác sĩ chuyên khoa da liễu hoặc bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng da và nếp nhăn của bạn, lắng nghe mong muốn của bạn và đề xuất liệu pháp phù hợp.

Trong quá trình thực hiện, bác sĩ sẽ sử dụng một kim tiêm nhỏ để tiêm chất gây tê vào vùng cần điều trị trên khuôn mặt. Vị trí tiêm và số lượng chất gây tê sẽ phụ thuộc vào kết quả mong muốn và khuyến nghị của bác sĩ.

Chất gây tê được tiêm vào các cơ mím như cơ chéo chân mày, cơ nhắc mày, cơ gò má, cơ xòe mắt bò và cơ rãnh mũi. Tiêm này làm giảm sự co bóp của các cơ và làm mờ các nếp nhăn và vết chân chim trên khuôn mặt.

Thời gian tiêm chất gây tê diễn ra nhanh chóng, thường chỉ mất vài phút. Cảm giác đau đớn trong quá trình tiêm rất nhẹ hoặc không có. Tuy nhiên, nếu cần, bác sĩ có thể sử dụng kem gây tê ngoại vào vùng da trước khi tiêm để giảm đau.

Kết quả của gây tê mặt phẳng cơ dựng sống không thấy ngay lập tức, mà thường tối ưu trong khoảng 3-7 ngày sau tiêm. Hiệu ứng của gây tê thường kéo dài từ 3 đến 6 tháng, sau đó cần tiêm lại để duy trì kết quả.

Quá trình này thường an toàn và không gây tác dụng phụ lớn. Tuy nhiên, những tác dụng phụ nhỏ có thể xuất hiện như sưng, đỏ, hoặc nhức mỏi ở vị trí tiêm trong vài giờ đầu sau quá trình tiêm. Rất hiếm khi, có thể xảy ra tình trạng mất cảm giác tạm thời hoặc vấn đề về cử động mắt, nhưng thông thường là tạm thời và tự giảm đi sau một thời gian ngắn.

Khi tiến hành gây tê mặt phẳng cơ dựng sống, quan trọng để chọn một bác sĩ giàu kinh nghiệm và có chứng chỉ chuyên môn. Bác sĩ sẽ có đủ kiến thức và kỹ năng để tiêm chất gây tê đúng cách và đảm bảo an toàn cho bạn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây tê mặt phẳng cơ dựng sống":

Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (erector spinae plane block) cho phẫu thuật tim hở
Áp dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống giúp giảm đau và không cần sử dụng opioid sau phẫu thuật tim hở. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật tim hở. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng được thực hiện từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 54 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 80, có chỉ định mổ tim hở theo kế hoạch, được đặt catheter ESPB hai bên ngay trước khi khởi mê, liều ropivacain tính theo cân nặng bệnh nhân, phối hợp thêm paracetamol truyền tĩnh mạch sau mổ. Điểm visual analogue scale, huyết áp trung bình khi nghỉ và khi vận động được đánh giá tại các thời điểm ngay sau rút nội khí quản và sau rút là 6, 12, 18, 24, 36, 48 giờ; đánh giá khí máu động mạch mỗi 24 và 48 giờ. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi nghỉ < 3 và khi vận động ≤ 4. Có 7,4% bệnh nhân phải chuẩn độ morphin; 3,7% bệnh nhân phải phối hợp PCA morphin. ESPB (Erector spinae plane block) không làm tụt huyết áp và các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường ở các thời điểm nghiên cứu; không có biến chứng sau phẫu thuật. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật tim hở.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #mổ tim hở #giảm đau.
ĐÁNH GIÁ PHONG BẾ CẢM GIÁC SAU GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG NGANG MỨC T7
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá vùng phong bế cảm giác sau gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên. Đối tượng và phương pháp: 30 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2022 đến 9/2022. Tiến hành ESPB ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên trước phẫu thuật và đánh giá lại phong bế cảm giác vùng ngực bụng trước bên và chi dưới sau gây tê 30 phút. Kết quả: 30 bệnh nhân tham gia nghiên cứu với thời gian thực hiện gây tê trung bình là 11,50±2,36 phút, khoảng cách từ da đến mặt phẳng cơ dựng sống được đo dưới hình ảnh siêu âm trung bình là 2,17±0,92 cm. Có 2 bệnh nhân phong bế thất bại. Số đốt da phong bế trung bình là 6,43 (2-10 đốt), với phần lớn bệnh nhân có giảm cảm giác đốt da T6 đến T9 và trên 50% bệnh nhân gây tê đạt phong bế từ đốt da T4 đến T10. Không có bệnh nhân nào gặp biến chứng trong nghiên cứu. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ở mức ngang mỏm ngang T7 cho hiệu quả phong bế cảm giác tốt, tuy nhiên mức phong bế cảm giác khác biệt nhiều giữa các bệnh nhân.
#phong bế cảm giác gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #đau sau phẫu thuật sỏi mật
Đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng hai bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng. 30 bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng theo chương trình được giảm đau trước mổ bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm tại Khoa Gây mê Hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2020. Ở nhóm gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng, điểm đau ANI tại thời điểm H5, H50, H80, H120, H150 trong mổ đều thấp hơn có ý nghĩa (p < 0,05), lượng fentanyl tiêu thụ thấp hơn (183,3[150 - 250] vs 343,3 [300 - 400]mg, p < 0,001) so với nhóm chứng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau trong mổ tốt cho các phẫu thuật cột sống thắt lưng.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng #giảm đau trong mổ #phẫu thuật cột sống thắt lưng.
GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ SỎI ĐƯỜNG MẬT CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ sỏi đường mật và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I giảm đau bằng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) một liều duy nhất mức T7 hai bên trước mổ mỗi bên bằng 20mL Ropivacain 0,25% phối hợp Dexamethasone 0,04%, nhóm II không được gây tê. Cả hai nhóm đều được gây mê nội khí quản và sau mổ sử dụng giảm đau PCA morphin. Kết quả: Nhóm gây tê ESP có thời gian yêu cầu thuốc giảm đau đầu tiên kéo dài hơn so với nhóm không được gây tê (3,60±2,45 giờ so với 0,66±0,31 giờ), ESP giúp giảm lượng morphin tiêu thụ 12h và 24h đầu sau mổ; giảm ý nghĩa điểm VAS lúc nghỉ và vận động trong 18h đầu sau mổ. Tỉ lệ nôn, buồn nôn, ngứa của 2 nhóm là tương đương, không gặp biến chứng nào của ESPB. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật sỏi đường mật
#gây mê mặt phẳng cơ dựng sống #phẫu thuật đường mật #giảm đau cho phẫu thuật sỏi mật
So sánh hiệu quả giảm đau giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và truyền tĩnh mạch liên tục morphin do bệnh nhân tự kiểm soát sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Đau sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) luôn là nỗi ám ảnh của người bệnh và là mối quan tâm hàng đầu của bác sĩ Gây mê hồi sức. Các đối tượng bị cơn đau cấp tính hoặc mãn tính sẽ gặp phải tình trạng giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ, giảm linh hoạt trong khả năng giải quyết vấn đề và tốc độ xử lý thông tin. Hiện nay có hai phương pháp giảm đau được sử dụng nhiều nhất là giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA: patient-controlled analgesia) và gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn của siêu âm (ESP: erector spinae plane). Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh hiệu quả giảm đau sau mổ giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) và giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA) trên bệnh nhân phẫu thuật tim hở với THNCT và đánh giá một số tác dụng không mong muốn của hai kỹ thuật giảm đau này. Đối tượng và phương pháp: 204 bệnh nhân người lớn được phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể từ tháng 5/2020 đến tháng 9/2021 tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội được chia làm 2 nhóm: nhóm ESP (108 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng sử dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và nhóm PCA (96 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng truyền morphin liên tục do bệnh nhân tự kiểm soát. Chúng tôi so sánh mức độ đau của hai nhóm bằng việc sử dụng thang điểm VAS, lượng fentanyl sử dụng trong mổ, lượng morphin sử dụng, thời gian tỉnh và thời gian rút nội khí quản sau mổ cũng như một số tác dụng không mong muốn gặp phải trong 24 giờ sau mổ. Kết quả: Điểm VAS trung bình khi BN nằm yên hít thở sâu tại các thời điểm đánh giá ở hai nhóm đều dưới 3 (tương ứng với mức độ đau ít) (p>0,05). Lượng fentanyl trung bình trong mổ ở nhóm ESP (0,57±0,50 mg) thấp hơn so với nhóm PCA (1,00±0,00 mg) (p<0,05). Lượng morphin tiêu thụ trung bình trong 24 giờ sau mổ ở nhóm ESP (0,23±0,12 mg) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm PCA (17,92±3,32 mg) (p<0,05). Thời gian tỉnh sau mổ (3,80±1,02 giờ ở nhóm ESP; 5,21±1,10 giờ ở nhóm PCA), thời gian rút nội khí quản trung bình (ở nhóm ESP là 8,06±1,60 giờ; ở nhóm PCA là 8,83±1,43 giờ) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ buồn nôn trong nhóm ESP (20,98%) thấp hơn so với nhóm PCA (58,33%) (p<0,05). Kết luận: Cả hai phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS trung bình ≤ 3. Nhóm ESP có lượng tiêu thụ morphin trung bình sau mổ thấp hơn, mức độ hài lòng của BN cao hơn và tỷ lệ buồn nôn, nôn, thở chậm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm PCA.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát #phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn của siêu âm trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành
Mục đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới sự hướng dẫn của siêu âm (ESPB) trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành so với giảm đau thường quy do bệnh nhân tự kiểm soát bằng morphin (bơm PCA morphin). Chúng tôi nhận thấy hiệu quả giảm đau thể hiện rõ cả lúc nằm yên cũng như khi vận động, từ thời điểm sau rút NKQ 12 giờ cho đến 36 giờ thì điểm đau VAS (khi nằm yên) có sự khác biệt rõ giữa 2 nhóm, còn điểm VAS lúc vận động giảm ngay từ giờ thứ 6 sau rút NKQ, nhóm nghiên cứu có điểm VAS thấp hơn nhóm chứng. Không có sự khác biệt về thời gian rút nội khí quản, (thời gian thở máy) nhưng nhóm nghiên cứu có thời gian nằm tại ICU ngắn hơn đáng kể (p ≤ 0,05). Nghiên cứu cũng ghi nhận gây tê ESPB đạt được hiệu quả giảm đau tốt hơn sau mổ, không phải dùng thêm morphin giảm đau, hạn chế được các tác dụng không mong muốn của morphin và rút ngắn thời gian ở khoa Hồi sức ngoại.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #Giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát #Thang điểm nhìn hình đồng dạng.
GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG TRONG CẮT GAN Ở TRẺ EM: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là kỹ thuật gây tê vùng mới, có tác dụng giảm đau tương tự như gây tê khoang cạnh sống, về mặt kỹ thuật dễ thực hiện, ít biến chứng và không bị chống chỉ định tuyệt đối ở bệnh nhân có rối loạn đông máu. Chúng tôi báo cáo trường hợp bệnh nhi 30 tháng, nặng 12 kg được chẩn đoán u nguyên bào gan. Bệnh nhi được phẫu thuật cắt gan không điển hình phân thùy 6,7. Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, giảm đau đa phương thức bao gồm truyền liên tục Fentanyl, paracetamol và gây tê mặt phẳng cơ dựng sống bên phải. Bệnh nhi nằm nghiêng trái, đặt đầu dò siêu âm ngang mức đốt sống ngực 7 bên phải, thực hiện chọc kim gây tê dưới siêu âm, xác định mặt phẳng cơ dựng sống, kiểm tra hút kim không có máu và khí, tiến hành bơm 6ml  dung dịch levobupivacain 0,25% vào mặt phẳng cơ dựng sống. Sau phẫu thuật bệnh nhi được rút ống nội khí quản thuận lợi, an toàn và được chuyển đến phòng hồi tỉnh sau mổ với tình trạng tỉnh hoàn toàn, giảm đau tốt (thang điểm FLACC: 0). Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống lồng ngực một lần với chiến lược giảm đau đa phương thức có tác dụng giảm đau tốt, bệnh nhi có thể rút nội khí quản an toàn, thuận lợi sau khi cắt gan.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #cắt thùy gan #trẻ em
46. SO SÁNH HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU TRONG VÀ SAU PHẪU THUẬT CẮT PHỔI GIỮA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG VỚI GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD11 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả giảm đau trong và sau phẫu thuật cắt phổi giữa phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống liên tục (erector spinae plane block - ESPB) và gây tê ngoài màng cứng bằng Ropivacain 0,125% kết hợp với Fentanyl 1 mcg/1 ml. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bao gồm 60 bệnh nhâncó chỉ định phẫu thuật cắt phổi được chia làm hai nhóm: 30 bệnh nhân giảm đau bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (GTMPCDS) và 30 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2023 đến tháng 9/2024. Kết quả: Tổng lượng fentanyl dùng trong mổ ở nhóm GTMPCDS và nhóm GTNMC không có sự khác biệt (p>0,05) (323,20 ± 35,2 và 320,87 ± 36,64 mcg). Lượng morphin tiêu thụ sau mổ trong 24 giờ của nhóm GTMPCDS là 541,67 ± 144,34 (mcg); ở nhóm GTNMC là 519,35 ± 151,74 (mcg). Sau 24 giờ 2 nhóm không cần bổ sung morphin. Điểm VAS khi nghỉ và vận động của nhóm GTMPCDS giảm có ý nghĩa thống kê gần tương tự như nhóm GTNMC. Chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về tỷ lệ tác dụng không mong muốn giữa hai nhóm gây tê (p >0,05). Kết luận: Phương pháp GTMPCDS có hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ tốt tương đương với GTNMC mà không gặp nhiều các biến chứng nặng.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #gây tê ngoài màng cứng #phẫu thuật cắt phổi/thùy phổi #giảm đau
27. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG LIÊN TỤC DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM SAU PHẪU THUẬT LỒNG NGỰC
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD9 - Hội Gây mê Hồi sức - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Đau sau phẫu thuật ngực có thể đưa đến bất động, thở không hiệu quả và gây ứ đọng các chất đờm dãi, dẫn đến tình trạng xẹp phổi, viêm phổi và huyết khối. Do đó, giảm đau sau phẫu thuật lồng ngực rất quan trọng, đem lại sự thoải mái cho bệnh nhân, giảm các biến chứng về phổi và tim mạch sau phẫu thuật. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê mặt phẳng cơ dựng sống liên tục dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật lồng ngực và khảo sát sự thay đổi huyết động, hô hấp, tai biến, tác dụng không mong muốn sau gây tê. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang. 100 bệnh nhân phẫu thuật chương trình tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, ASA I-III, được phẫu thuật lồng ngực. bệnh nhân gây tê mặt phẳng cơ dựng sống với liều bolus 30 ml Levobupivacain 0,25%, tiếp theo truyền Levobupivacain 0,125% (10-15 ml/giờ) trong và sau phẫu thuật 48 giờ. Kết quả: VAS tĩnh tại thời điểm 1 giờ sau phẫu thuật là 1,75 ± 0,61; sau 24 giờ là 1,53 ± 0,55; sau 48 giờ là 1,37 ± 0,53. Điểm VAS động tại thời điểm 1 giờ sau phẫu thuật là 3,56 ± 0,89; sau 24 giờ là 2,00 ± 0,71; sau 48 giờ là 1,96 ± 0,67. Chất lượng hồi tỉnh sau 24 giờ là 129 điểm (101-146,5 điểm) và sau 48 giờ là 138 điểm (117-149 điểm) đều lớn hơn 121 điểm (chất lượng hồi tỉnh tốt). 1 trường hợp (1%) chạm mạch máu, 4 trường hợp (4%) buồn nôn hoặc nôn. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống liên tục dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật lồng ngực: giảm đau hiệu quả, an toàn, tỷ lệ thành công cao, ít tai biến và biến chứng, đem lại chất lượng hồi tỉnh tốt cho bệnh nhân.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #siêu âm #Levobupivacain #phẫu thuật lồng ngực #chất lượng hồi tỉnh
Tổng số: 13   
  • 1
  • 2